Scattered Memories
Page 7
Xô ngã mấy trủờng thành
Con cuối dầu tiếp nhận
Đời đời nguyện chẳng quên.
Sư Ông đã cất cho Thầy chiếc thất gỗ xinh xắn bên bìa rừng gần thất Ngồi Yên của Sư Ông. Thất Thầy quanh năm rộn rã tiếng chim và đong đưa sắc hoa bìm tim tím. Thầy đã từng chọn cho mình cái tên Phù Vân cốc. Từ đây vùng trời tâm linh không gian lồng lộng. Thầy đã có những bước chân thong dong và vững chãi, rồi cũng từ ấy nụ cười và tiếng nói mang tặng được cho thiền sinh phẩm chất của sự an lạc sâu hơn. Và nhờ vậy chuyến hoằng pháp của Thầy vào năm 1992 với các khóa tu mở ra cho các tăng thân miền đông Bắc Mỹ đã thành công thật lớn. Có thể nói không sợ sai lầm rằng trên bước đường hoằng pháp, Thầy đi đến các nơi như Pháp, Mỹ, Úc, Canada … mở các khóa tu, hướng dẫn thiền sinh, thành lập các tăng thân từ năm 1992 đến 1995, cho đến khi về trụ tại Rừng Phong năm 1998, rồi về Lộc Uyển năm 2000 và mãi đến khi thu thần tịch diệt, nơi nào có bước chân Thầy đi qua, thiền sinh đều cảm nhận được năng lượng ngọt ngào, tươi mát, an lạc, thảnh thơi của Thầy tỏa ra, và họ đã dành cho Thầy tất cả niềm thương yêu và kính trọng.
Mùa thu năm 1995, cơn bệnh tiểu đường, gan và phổi tiềm phục lâu năm nay bắt đầu phát tác. Thầy đã sống với cơn bệnh từ năm 1992, cũng có thể trước đó. Thầy đã dùng hơi thở mình ôm ấp và làm dịu đi cơn bệnh. Thầy đã bảo bọc thương yêu nó như một bà mẹ, không hề trách cứ phiền hà con, cho dù con có hoang nghịch ra sao. Người xưa lắm vị gặp chướng duyên, thân kề cái chết đã nổ lực dụng công nên một đời liễu quyết được đại sự. Thầy thân mang trọng bệnh, tâm vẫn cứ an nhiên, và nhất là những lời thơ cuối đuợc viết từ năm 1997 trở về sau đã gây được niềm tin lớn cho Phật tử.
Bủớc chân trên đất thực
Hoa thắm nở ngàn nỏi
Chì một niệm chiếu soi
Siêu nhiên ngoài ba cõi.
Và bài ‘Ánh Sáng Cua Mùa Đông’ như một bản tuyên ngôn hùng tráng của người đã về:
Đối dịện cùng tuyết tráng
Bỗng dủng tôi biến mất
Và cả một vũ trụ
Trở thành ảnh sáng cua tự tâm.
Năm 1997, Thầy Giác Thanh được đề cử làm Giáo Thọ hướng dẫn việc tu học tại tu viện Rừng Phong và đạo tràng Thanh Sơn ở Vermont. Thầy đã tặng những bước chân vững chãi và hạnh phúc của mình cho tất cả thầy, cô và Phật tử về tu học nơi đây. Vào năm 2000, Thầy cùng một số người trong tăng thân Làng Mai chọn đất Lộc Uyển, rồi được Sư Ông suy cử chức trụ trì Lộc Uyển Tự, Đại Ẩn Sơn. Thầy đã biết đây là chốn an trụ cuối cùng của cuộc đời nên muốn đem hết hơi tàn để đền ơn bậc đạo sư mà mình qúy trọng nhất. Thế nhưng lần này cơn bệnh ngang bướng không thỏa hiệp và cuối cùng như mọi hiện tượng sinh diệt của nhân gian, Thầy đã trả hình hài sương khói về cho mộng huyễn. Các bậc thánh La Hán khi thu thần nhập niết bàn từng tuyên bố: ‘Việc đáng làm đã làm xong’. Thầy đã về Lộc Uyển vào đầu hè năm 2000 và đã ra đi vào mùa thu năm 2001. Ngày tháng lưu ngụ nơi nầy thật ngắn so với tuổi thọ trung bình của một đời người và phù du biết mấy khi so với tuổi thọ của trăng sao. Thế nhưng điều Thầy đã làm được lớn vô vàn và đã đi vào bao nhiêu tấm lòng của người còn ở lại. Một giọng nói hiền hòa, chậm rãi đầy thương yêu, một nụ cười an lạc cho đến phút giây cận kề thần chết, một cái nhìn sắc bén trí tuệ thâm sâu và mênh mông từ ái, những bước chân an bình diễn đạt nội tâm ‘đã về, đã tới’. Đó là món qùa lớn lao nhất Thầy tặng cho các sư em và cho tất cả tăng thân có mặt nhiều nơi trên thế giới.
Thầy quả xứng đáng vị giáo thọ của các thiền sinh u, Mỹ và Việt. Tuy Thầy có ra đi nhưng Thầy đã hóa thân vào trong họ. Lời Thầy đã làm hành trang cho họ để họ đi vào tự thân trí tuệ, và tự thân của hạnh phúc và thương yêu. Nhất là những bài pháp thoại cuối cùng, Thầy gượng dậy giữa cơn đau thuyết cho thính chúng tại thiền đường Trăng Rằm Lộc Uyển Tự. Ôi! Lời Thầy sao mà sâu sắc đến vậy. Thầy là một sư anh lớn được thương quý nhất trong lòng các sư em hiện tại. Ở đây mỗi sư em nhớ về Thầy một cách khác nhau. Thầy như người anh chở che, đôi khi nghiêm khắc, như vị thầy từ ái, như mẹ hiền vỗ về, như người chị chăm sóc thương yêu, như người bạn mở lòng ra cho mình tâm sự. Thầy đã cho các sư em hết cả tấm lòng thương yêu mà mình có. Thầy như cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ và cũng có nhiều loại hoa mộc mạc, bình dị, đơn sơ để các em dạo chơi tùy thích. Đến với Thầy, các em thấy mình mất hút và hòa tan như con nước sông hòa tan vào biển lớn. Các sư em nghĩ sẽ khó mà có được một sư anh đáng qúy như Thầy. Bài thơ cho các sư em Thầy viết:
Xin đừng la rầy trách mắng các em tôi
Vì sợ ràng màu xám cua buờn đau
Sẽ phủ vây những mảnh hồn trong suốt tinh anh.
Thầy cũng là một học trò đạo nghĩa thật sâu. Niềm hiếu kính đối với Sư Ông Làng Mai nơi Thầy thâm thẩm. Thầy cũng tròn ân đối với vị ân sư khơi mở bước đầu trên con đường tâm linh khi ngài có dịp đặt chân lên đất Mỹ vào tháng 10 năm 2000. Thầy đã cùng một số sư em, Phật tử và tăng thân nam bắc Cali hỗ trợ và tổ chức các buổi thuyết pháp của Hòa thượng Trúc Lâm bình yên trên vùng nam Cali. Việc Thầy làm đã thành công kỳ diệu nhưng cũng thầm lặng nào ai biết.
Đối với bạn hữu và người thân ngoài đời hay trong đạo Thầy cư xử rất trọn tình. Lần đầu tiên về thăm lại quê hương Việt Nam vào năm 1992, bạn bè rất ngỡ ngàng vì Thầy quá bình dị. Không ngờ Thầy đã sống nhiều, đã kinh qua niềm đau nỗi khổ, trải nghiệm lắm truân chuyên và hiểu biết rộng sâu bởi đã học hỏi thân cận các bậc đạo sư lớn, thế mà khiêm tốn và bình thường đến dễ thương như vậy. Khoác chiếc áo Tiếp Hiện, đeo túi vải thô lỏng thỏng trên vai, không kẻ đón người đưa, không kiêu xa, không hình thức của kẻ ‘áo gấm về làng’. Cũng nụ cười mỉm mủn và nhẹ nhàng, Thầy đi qua các chướng ngại mang tin vui vật chất và niềm tịnh lạc của pháp hành về tặng cho một số đông người ở quê hương. Ngoài việc chung là vậy, Thầy đã dành thì giờ thăm lại bạn bè xưa. Những bạn tu đón Thầy bồi hồi xúc động. Bạn bè nhân gian chảy nước mắt, mừng mừng chẳng biết nói chi. Người thân trong gia đình bàng hoàng như gặp Thầy trong cơn mơ. Sau đó Thầy lên đường về Mỹ. Trước khi về Thầy tìm mua bộ đồ trà mình yêu thích nhất, gói ghém thật gọn mang về để trân trọng tặng bạn thân. Bằng hữu của Thầy hiện tại nơi đây không đếm được bao nhiêu, nhưng nhìn sự thương quý của họ đối với Thầy đủ biết được tình Thầy trao cho họ.
Lần về thăm quê hương thứ hai vào năm 1999, Thầy bảo các bạn: ‘Mình về thăm lần này là lần cuối, chắc mình không về được nữa đâu.’ Lời nói tưởng chừng đùa ai ngờ đâu sự thật. Lần này một người bạn thân thuở nhỏ đã giúp Thầy hoàn thành
những gì cần giúp đỡ đối với người thân trong gia đình trước lúc đi xa.
Thầy đã đến và đi trong cuộc đời này đẹp như thế đó. Sống kiêu hùng và cũng khiêm cung, phong lưu nhưng cũng chắt chiu từng đồng tình nghĩa. Cuộc đời Thầy như đóa quỳnh tinh khiết nở trong đêm.
Phút cận tử mắt nhắm nghiền tưởng chìm vào cỏi vĩnh hằng, ấy thế mà khi nghe pháp ngữ của Sư Ông Làng Mai từ Bắc Kinh gọi về khai thị, Thầy đã mủn cười, mặt tươi hồng và mở mắt ra, thần thái tinh anh rạng rỡ:
Trủợng phu tiếng đã biết
Việc đáng làm đã làm
Tháp vừa dựng sủờn núi
Tiếng củời trẻ đã vang.
Ngoài ra Sư Ông còn làm hai câu đối tặng Thầy:
Một lá ngô đồng rỏi, ngủời vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ,
Ngàn hoa thủy tiên hé, đất cứ theo trời hát khúc vô sinh.
Người xưa khi nói câu: ‘Việc đáng làm đã làm’ hẳn sẽ không còn tái hiện nhân thân trong cuộc đời vô thường nữa. Tuy nhiên kẻ trượng phu ra vào tự tại, đến đi thong dong, quả đại giác chưa tròn tức sẽ tái lai hành Bồ Tát đạo. Xin nguyện trăm kiếp nghìn đời luôn cùng Thầy làm bạn pháp.
Lộc Uyển Tự Đại Ẩn Sơn,
9/10/2001
Thích Phước Tịnh
Parallax Press is a nonprofit publisher, founded and inspired by Zen Master Thich Nhat Hanh. We publish books on mindfulness in daily life and are committed to making these teachings accessible to everyone and preserving them for future generations. We do this work to alleviate suffering and contribute to a more just and joyful world.
To learn more about our books, click here.
Want to connect with like-minded readers? Check out our book club and our blog for reader’s guides and the latest news from Parallax Press.
Subscribe to our newsletter to receive special deals, news from our authors, and inspiration.
Visit us on Facebook.
Follow us on Twitter.
Add us on Goodreads.